Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), đến hết tháng 10 năm 2023, xuất khẩu thủy sản Việt Nam vẫn giảm 21% so với cùng kỳ năm 2022, đạt 7,4 tỷ USD. Giá trị xuất khẩu các mặt hàng thủy sản đều thấp hơn so với cùng kỳ năm ngoái.
Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), đến hết tháng 10 năm 2023, xuất khẩu thủy sản Việt Nam vẫn giảm 21% so với cùng kỳ năm 2022, đạt 7,4 tỷ USD. Giá trị xuất khẩu các mặt hàng thủy sản đều thấp hơn so với cùng kỳ năm ngoái.
Nông nghiệp từ lâu đã là thế mạnh của Việt Nam – một cường quốc tự hào với nền nông nghiệp lâu đài và bền vững. Từ 2009 đến nay, giá trị xuất khẩu nông sản của đất nước ta luôn ở mức cao. Đóng góp một phần không nhỏ vào tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa và GDP của nước ta.
Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản tăng từ 16,5 tỷ USD năm 2008 lên 32,1 tỷ USD năm 2016 (tăng trưởng 8,7%/năm).
Trong số đó, một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chạy nhất và có kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh là:
Có thể bạn quan tâm Tăng năng suất nhờ hệ thống nông nghiệp thông minh
Gạo là một trong những mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Thị trường tiêu thụ gạo của nước ta lớn nhất là Philippines (31,5% thị phần).
Các thị trường có giá trị xuất khẩu gạo tăng mạnh là: Senegal (gấp 9,86 lần), Bờ Biển Ngà (tăng 78,6%), Đài Loan (tăng 31%), Hong Kong (tăng 28,3%) và Tanzania (tăng 26,6%).
Gạo – mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam
Hiện nay, Việt Nam đã góp mặt đáng kể trong việc xuất khẩu các mặt hàng rau quả sang nước ngoài. Sau đây là các thị trường cùng với các loại nông sản xuất khẩu chạy nhất tương ứng:
Xuất khẩu rau quả tăng mạnh liên tục qua các năm
Việt Nam tự hào khi đứng đầu quốc gia xuất khẩu hạt điều sang thị trường Mỹ. Chiếm gần 37% trong tổng lượng xuất khẩu của cả nước, với 67.085 tấn, tương đương 450,93 triệu USD.
Đứng thứ 2 về lượng tiêu thụ chính là thị trường EU. Chiếm 25% tổng lượng xuất khẩu của cả nước, với 46.375 tấn, tương đương 310,95 triệu USD, tăng 23,6% về lượng.
Đứng thứ 1 về lượng tiêu thụ hạt điềuchính là thị trường Mỹ
Việt Nam sở hữu những cánh đồng và đồi chè bạt ngàn, vì thế cà phê từ lâu đã trở thành nông sản xuất khẩu chạy nhất nước ta.
Đức là thị trường lớn nhất xét về lượng tiêu thụ cà phê xuất khẩu của Việt Nam. Tiếp theo là thị trường Đông Nam Á và Hoa Kỳ lần lượt đạt 149.507 tấn và 111.273 tấn, tương đương 296,75 triệu USD và 185,95 triệu USD.
Cà phê từ lâu đã trở thành nông sản xuất khẩu chạy nhất nước ta
Thị trường Trung Quốc và Malaysia vẫn duy trì là thị trường tiêu thụ cao su lớn nhất của Việt Nam nhưng lại có chiều hướng giảm so với cùng kỳ của năm trước.
Bên cạnh đó còn có thị trường Ấn Độ. Chiếm 30% cả về lượng và kim ngạch so với cùng kỳ năm 2018, đạt 118.463 tấn, trị giá 169,09 triệu USD, chiếm 7,9% trong tổng lượng và chiếm 8,3% trong tổng kim ngạch.
Bắt kịp xu hướng thời đại và nhu cầu của thị trường là nhiệm vụ hàng đầu của nhà nông. Hy vọng bài viết trên cung cấp kiến thức hữu ích cho vụ mùa trồng trọt của bạn. Hãy đặc biệt quan tâm hơn đến 5 mặt hàng nông sản xuất khẩu chạy nhất này nhé!
Bạn có thể tham khảo thêm phần mềm chăm sóc khách hàng NextX CRM trong nền tảng NextX giúp cho doanh nghiệp lựa chọn được phần mềm phù hợp để phát huy hiệu quả tối đa trong kinh doanh.
Các mặt hàng thủy sản XK chủ lực của VN vẫn là tôm, cá tra, cá biển, nhuyễn thể và các loại thủy sản đông lạnh...
Từ nhiều năm nay, các mặt hàng thủy sản xuất khẩu chủ lực của VN vẫn là tôm, cá tra, cá biển, nhuyễn thể, các loại thủy sản đông lạnh và các loại thủy sản khô. Cơ cấu các mặt hàng XK của nước ta ngày càng bổ sung thêm các mặt hàng có giá trị như cá ngừ, nghêu và một số đặc sản khác.
Con tôm đang được phát triển nuôi rất rầm rộ trên toàn thế giới, sản lượng tôm ngày càng tăng, đến nay theo ước tính có thể đạt gần 3 triệu tấn, thỏa mãn tương đối tốt nhu cầu tiêu thụ chung của thế giới.
Trong bối cảnh nguồn cung dồi dào, con tôm có thể nói là mặt hàng cạnh tranh gay gắt nhất trong các mặt hàng TS thương mại trên thế giới, con tôm Việt Nam đã phải nỗ lực rất nhiều để duy trì tiềm năng xuất khẩu.
9 tháng đầu năm, XK tôm đạt gần 112 nghìn tấn, trị giá trên 1,067 tỷ USD, chỉ tăng rất nhẹ 1,2% về giá trị so với cùng kỳ năm 2006. XK tôm vẫn giữ vị trí là mặt hàng XK số 1, chiếm 39,4% tổng giá trị XKTS của nước ta. XK tôm tăng trưởng nhẹ là kết quả của nhiều yếu tố như sản lượng tôm nguyên liệu trong nước không tăng, giá tôm nguyên liệu luôn giữ mức cao so với nhiều nước sản xuất tôm trong khu vực và giá thành sản xuất nói chung tăng. Xu hướng của nhiều DN chế biến hiện nay là tăng tỷ trọng sản phẩm tôm GTGT, phù hợp với nhu cầu của các thị trường lớn như Nhật và Mỹ.
Vị trí mặt hàng XK lớn thứ 2 là cá tra. Mấy năm gần đây con cá tra thể hiện rõ tiềm năng to lớn trên vùng sông nước ĐBSCL, tạo nên sức tăng trưởng nhảy vọt của xuất khẩu thủy sản VN. 9 tháng đầu năm, XK cá tra đạt trên 272,7 nghìn tấn, trị giá trên trên 709 triệu USD, tăng khá mạnh 37,2 % về giá trị so với cùng kỳ năm 2006. XK cá tra chiếm 26,2% tổng giá trị XKTS. Hiện nay, EU, Đông Âu và một số nước Bắc Mỹ vẫn có nhu cầu cao đối với philê cá tra đông lạnh, đây là sự thay thế thích hợp cho philê cá thịt trắng hiện đang sụt giảm dần sản lượng trên phạm vi toàn thế giới. Vì vậy, kết hợp với tiềm năng công suất nuôi đang tăng mạnh trong nước, giá nguyên liệu đang ở mức vừa hợp lý, xuất khẩu cá tra sẽ tiếp tục lập kỷ lục mới trong năm 2007.
XK cá ngừ cũng đạt được tiến bộ lớn, đạt trên 39,2 nghìn tấn, trị giá trên trên 111 triệu USD, với sức tăng trưởng khá cao 27,8% so với cùng kỳ năm 2006. Đơn giá của cá ngừ đại dương khá cao, vì vậy đây cũng là đối tượng sản phẩm thu hút sự đầu tư phát triển của các ngư dân và doanh nghiệp chế biến xuất khẩu.
Một điểm đáng chú ý và lạc quan trong tình hình XKTS của VN là mặt hàng mực và bạch tuộc đông lạnh đạt mức tăng trưởng có thể nói là cao nhất trong mấy năm gần đây với 35,5% cao hơn về giá trị so với cùng năm ngoái, đạt 60,4 nghìn tấn, trị giá 205,5 triệu USD, chiếm 7,7% tổng XKTS của nước ta. XK mặt hàng này đạt được kết quả khả quan một phần là nhờ sản lượng khai thác trong vài năm gần đây đã cải thiện lên khá nhiều.
XK cá các loại là mảng hàng hóa quan trọng luôn giữ mức tăng trưởng khá. 9 tháng đầu năm, XK cá đạt trên 85 nghìn tấn, trị giá gần 249,1 triệu USD, tăng 17,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2006. Dự đoán, XK cá các loại sẽ tiếp tục nhịp độ tiến triển như trong thời gian qua.
Bên cạnh các mặt hàng chủ lực, XK hàng khô và hải sản khác chỉ tăng ở mức khiêm tốn về giá trị và có giảm nhẹ về khối lượng. Tuy nhiên, tổng XK của các mặt hàng này cũng chiếm một phần đáng kể trong toàn bộ giá trị XK của TS VN với giá trị trên 365,6 triệu USD.
Top 5 thị trường đứng đầu nhập khẩu cá ngừ Việt Nam lần lượt là: Mỹ, Israel, Thái Lan, Nhật Bản, Canada và Đức. Trong top này thì xuất khẩu cá ngừ sang Israel, Thái Lan và Đức là có sự tăng trưởng tốt. Còn Mỹ, Nhật Bản và Canada đều giảm mạnh, đặt biệt thị trường đứng đầu nhập khẩu là Mỹ giảm 41% trong 9 tháng năm 2023.
Tại thị trường Mỹ, xuất khẩu cá ngừ đã không giữ được đà tăng trưởng trong tháng 8. Giá trị xuất khẩu cá ngừ sang thị trường này đã giảm nhẹ 1% trong tháng 9. Do đó, 9 tháng năm 2023, kim ngạch xuất khẩu cá ngừ sang thị trường này vẫn giảm hơn 41% so với cùng kỳ.
Tuy chưa chiếm tỷ trọng cao, nhưng xuất khẩu cá ngừ sang Ba Lan có sự tăng trưởng khá tốt. Lũy kế 9 tháng xuất khẩu cá ngừ sang thị trường này vẫn tăng 125% so với cùng kỳ năm 2022, đạt hơn 4 triệu USD.
Trong khối Liên minh châu Âu (EU), Ba Lan là thị trường xuất khẩu cá ngừ lớn thứ 7. Nhập khẩu cá ngừ của nước này có xu hướng tăng trưởng liên tục trong 5 năm trở lại đây. Đây sẽ là cơ hội cho cá ngừ Việt Nam chinh phục thị trường này.
Đặc biệt khi, Việt Nam đang là nguồn cung cá ngừ lớn thứ 3 ngoài khối cho thị trường Ba Lan, sau Ecuador và Philippines. Trong khi xuất khẩu của Philippines sang thị trường này giảm liên tục thì xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam lại đang khởi sắc.
Trong số các sản phẩm cá ngừ xuất khẩu sang thị trường này, cá ngừ đóng hộp chiếm tỷ trọng lớn nhất hơn 83% và so với cùng kỳ, nhóm sản phẩm này tăng mạnh 211%.
Theo các doanh nghiệp, một trong những nguyên nhân thúc đẩy xuất khẩu cá ngừ đóng hộp sang thị trường này tăng mạnh là do ảnh hưởng của lạm phát. Bên cạnh đó, giá cả tăng trong chuỗi cung ứng (như giá dầu thực vật, lon và bao bì carton đều tăng vọt) nên các nhà nhập khẩu EU có xu hướng tăng nhập khẩu trực tiếp.
Xuất khẩu cá ngừ sang thị trường Anh qua 9 tháng vẫn tăng 48% so với cùng kỳ năm trước, đạt hơn 5,5 triệu USD. Tuy nhiên, những tháng gần đây, xuất khẩu cá ngừ sang thị trường này lại có sự giảm sút khá.
Việt Nam xuất khẩu nhiều nhất thịt/lon cá ngừ đông lạnh mã HS0304 sang thị trường Anh, chiếm tới hơn 94% tổng kim ngạch xuất khẩu. So với cùng kỳ năm 2022, xuất khẩu các mặt hàng cá ngừ tươi và đông lạnh của Việt Nam sang Anh đang tăng mạnh.
Hiện Việt Nam đang là nguồn cung cá ngừ đứng thứ 13 tại thị trường này, với tỷ trọng còn rất khiêm tốn 1%. Theo các doanh nghiệp, yêu cầu các sản phẩm khai thác của Anh là tương đương với EU, trong khi thủy sản khai thác của Việt Nam đang chịu “thẻ vàng” của Ủy ban châu Âu (EC), nên khả năng cạnh tranh của cá ngừ Việt Nam tại thị trường Anh thấp.
Với Canada, xuất khẩu cá ngừ sang đây trong tháng 9 đã đảo chiều tăng 44% so với cùng kỳ, cắt đà giảm 8 tháng liên tiếp. Qua 3 quý năm 2023, xuất khẩu cá ngừ sang thị trường này đạt gần 23 triệu USD, giảm 47% so với cùng kỳ.
VASEP nhận định xuất khẩu cá ngừ sang thị trường Canada sẽ vẫn chưa thể phục hồi hoàn toàn trong những tháng tới, nhất là trong bối cảnh nợ tín dụng tiêu dùng của người Canada ngày càng tăng cao, người dân sẽ thắt chặt chi tiêu hơn.
*Mời bạn đọc vào chuyên mục Kinh tế xem các tin, bài liên quan.
Xuất khẩu nông sản là bước tiến không thể thiếu trong quá trình hội nhập và phát triển. Hoạt động này giúp ích trong việc kích thích tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập quốc dân và tăng trưởng GDP. Cùng NextX điểm qua Top 5 nông sản xuất khẩu chạy nhất nhé!