Sản Xuất Hàng Hóa Là Gì

Sản Xuất Hàng Hóa Là Gì

Sản xuất hàng hóa từ lâu đã là một phần không thể tách rời đối với cuộc sống của con người hiện đại. Mỗi ngày, các loại hàng hóa đều được sản xuất với số lượng lớn hơn, mẫu mã đa dạng hơn, công dụng tối ưu hơn,…Hãy cùng VietFul tìm hiểu ngay sản xuất hàng hóa là gì và làm sao để sản xuất hàng hóa hiệu quả trong thời đại cạnh tranh như ngày nay nhé!

Sản xuất hàng hóa từ lâu đã là một phần không thể tách rời đối với cuộc sống của con người hiện đại. Mỗi ngày, các loại hàng hóa đều được sản xuất với số lượng lớn hơn, mẫu mã đa dạng hơn, công dụng tối ưu hơn,…Hãy cùng VietFul tìm hiểu ngay sản xuất hàng hóa là gì và làm sao để sản xuất hàng hóa hiệu quả trong thời đại cạnh tranh như ngày nay nhé!

Sự tách biệt kinh tế của những người sản xuất

Điều kiện tiếp theo mà chúng ta cần để xuất hiện và duy trì sản xuất hàng hóa là sự tách biệt mang tính tương đối về kinh tế của những người sản xuất.

Sự tách biệt kinh tế tương đối có nghĩa là những người sản xuất có thể tách biệt, độc lập với nhau. Từ đó, các sản phẩm mà họ làm ra sẽ chỉ thuộc về sở hữu của một mình họ và có thể tự do chi phối.

Nếu người đó muốn tiêu dùng hàng hóa do người khác làm ra thì cần phải tiến hành trao đổi, mua bán theo tỷ lệ nhất định. Sự tách biệt về kinh tế giữa những người sản xuất dựa trên ba cơ sở.

Trong lịch sử, điều này xuất hiện là do chế độ tư hữu vật tư sản xuất. Còn hiện nay, việc tách biệt kinh tế xảy ra do nhiều hình thức sở hữu tư liệu sản xuất khác nhau. Cùng với đó là tách biệt về quyền sở hữu và quyền sử dụng đối với các tư liệu sản xuất.

Tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của cá nhân thì những sản phẩm được sản xuất ra cũng sẽ là của họ và họ có toàn quyền sử dụng.

Sự tách biệt này xảy ra là do các mối quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất khác nhau. Điều này bắt nguồn từ chế độ tư hữu nhỏ, xác định quyền sở hữu các sản phẩm làm ra từ lao động sẽ thuộc về người sở hữu tư liệu sản xuất.

Do đó, các mối quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất khác nhau tạo nên sự độc lập, đối lập giữa những người sản xuất với nhau. Tuy nhiên, họ vẫn nằm trong sự phân công lao động của xã hội nên lại có sự phụ thuộc về sản xuất, tiêu dùng.

Như vậy, nếu một người dùng muốn sử dụng sản phẩm của người khác thì cần thông qua mua - bán, tức là tiến hành trao đổi bằng hình thái hàng hóa.

Cơ sở thứ ba của sự tách biệt kinh tế này là do sự tách biệt giữa quyền sở hữu và sử dụng đối với tư liệu sản xuất. Tách biệt kinh tế không chỉ khác về quyền sở hữu mà còn khác cả về quyền sử dụng khối lượng tư liệu khác nhau ở cùng một chủ sở hữu.

Khi tách biệt kinh tế giữa những người sản xuất tồn tại cùng lúc với sự phân công lao động trong xã hội thì việc trao đổi hàng hóa sẽ cần đảm bảo lợi ích của họ. Điều này chỉ có thể làm được khi trao đổi tiến hành trên nguyên tắc ngang giá tức là hàng hóa, các sản phẩm của lao động sẽ trở thành hàng hóa.

Sự tách biệt kinh tế tương đối giữa người sản xuất với nhau khiến cho sản phẩm làm ra sẽ thuộc quyền sở hữu và chi phối của họ và vì thế họ cũng có thể mang sản phẩm đó đi bán.

Ngoài ra, sự tách biệt kinh tế này còn khiến cho mối quan hệ trao đổi của người sở hữu sẽ mang hình thái trao đổi, mua bán hàng hóa. Bởi sự tác biệt về kinh tế sẽ khiến những người sản xuất có được sự độc lập về lợi ích kinh tế với nhau.

Cho nên, các sản phẩm được sản xuất ra sẽ mang hình thức trao đổi dựa theo nguyên tắc ngang giá mới đạt được sự công bằng và đảm bảo được lợi ích của mỗi người.

Trên đây là hai điều kiện cần thiết để có thể ra đời và duy trì sản xuất hàng hóa cho tới ngày nay. Nếu như thiếu một trong hai điều kiện nêu trên thì sẽ không có sản xuất mà không có sản xuất thì cũng sẽ không có sự trao đổi.

Cho nên, sản xuất hàng hóa là một phạm trù mang tính lịch sử. Có nghĩa là nó sẽ tồn tại khi có đủ cả hai điều kiện trên và cũng chỉ mất đi khi một trong hai điều kiện nay mất đi.

Trên đây là một số thông tin về hàng hóa là gì, các thuộc tính cơ bản và những điều kiện để ra đời và duy trì sản xuất hàng hóa mà chúng tôi muốn gửi đến bạn đọc.

Hy vọng nội dung bài viết sẽ giúp bạn hiểu hơn về phạm trù kinh tế này. Nếu còn thắc mắc, độc giả vui lòng liên hệ 1900.6192 để được hỗ trợ, giải đáp.

Lên ý tưởng thiết kế sản phẩm và quy trình công nghệ sản xuất

Sự phát triển nhanh chóng của các sản phẩm mới mỗi ngày là một thách thức đối với những người làm trong lĩnh vực kinh doanh sản xuất bởi môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt. Mọi loại sản phẩm đều cần có phương pháp và việc thiết kế quy trình công nghệ là việc xác định các yếu tố đầu vào cần thiết như máy móc, thiết bị, trình tự các bước công việc và kỹ thuật.

Xác định đủ năng lực sản xuất cho phép các doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu hiện tại, tận dụng lợi thế của thương mại mới và cơ hội trên thị trường để phát triển sản xuất. Việc không xác định được năng lực sản xuất phù hợp sẽ dẫn đến tổn thất vốn lớn, đầu tư tốn kém hoặc có thể cản trở quá trình sản xuất trong tương lai.

Lên kế hoạch về các nguồn lực để sản xuất hàng hóa bao gồm việc xác định kế hoạch chung cho các nhu cầu của quản lý sản xuất, trên cơ sở đó hoạch định các nguồn lực sản xuất chung và kế hoạch tổ chức lao động cũng như sử dụng các loại máy móc phù hợp. Cần lưu ý xác định các nguồn trang thiết bị, kế hoạch chi tiết tìm nguồn cung ứng nguyên vật liệu,…, để đảm bảo sản xuất liên tục với chi phí thấp nhất.

Ưu thế và hạn chế của sản xuất hàng hoá

Việc sản xuất hàng hoá sẽ mang lại rất nhiều lợi thế cho cả cá nhân, xã hội.

Sự mở rộng các mối quan hệ giao lưu, hợp tác này không chỉ cải thiện đời sống vật chất mà còn nâng cao, đa dạng hoá đời sống văn hoá và tinh thần.

Không chỉ vậy, sản xuất hàng hoá còn phá vỡ sự bảo thủ, lạc hậu nhằm tạo điều thuận lợi khi ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào quá trình sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội và nhu cầu xã hội được đáp ứng đầy đủ hơn.

Tuy sản xuất hàng hoá mang lại nhiều lợi thế nhưng cũng sẽ mang lại nhiều mặt hạn chế của sản xuất hàng hoá cho cá nhân, cho toàn xã hội. Nhiều hạn chế có thể kể đến như phân biệt giàu nghèo, khủng hoảng, lạm phát, phá hoại và gây ô nhiễm môi trường, hàng giả, hàng kém chất lượng tràn lan,… Cùng điểm qua một số hạn chế tiêu biểu và hướng giải quyết phù hợp dưới đây.

Lạm phát là sự tăng giá liên tục của hàng hoá/ dịch vụ dẫn đến tiền tệ bị mất giá. Nôm na là khi giá cả một món hàng tăng lên, thay vì dùng 1 đồng để mua thì phải dùng đến 2, 3 đồng mới mua được, lượng hàng hóa mua được sẽ ít đi.

Lạm phát có cả mặt tích cực lẫn tiêu cực và khi mức độ lạm phát tăng cao thì sẽ tạo ra nhiều hệ quả xấu. Tỷ lệ lạm phát tăng khiến cho các mức lãi suất cũng tăng theo dẫn đến những hạn chế của sản xuất hàng hoá và gây ra tình trạng suy thoái kinh tế, thất nghiệp trầm trọng.

Tình trạng lạm phát còn khiến đồng tiền của nước này trở nên mất giá hơn so với các nước khác, gia tăng khoản nợ với nước ngoài, gây ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế và địa thế của nước đó trên thị trường quốc tế.

Lạm phát tăng cao nhưng mức thu nhập của người dân tăng ít hoặc không đổi sẽ khiến họ lâm vào tình trạng khó khăn, nhiều người bỏ việc dễ dẫn đến tình trạng bất ổn trong xã hội, tệ nạn gia tăng.

Lạm phát trong sản xuất hàng hoá còn tạo ra khoảng cách giàu nghèo lớn gây ra những hạn chế của sản xuất hàng hoá. Có nhiều người sẽ đầu cơ trục lợi dùng tiền để thu gom, vơ vét hàng hoá khiến cho mặt hàng đó trở nên khan hiếm, làm mất cân đối quan hệ cung – cầu khiến cho giá cả các mặt hàng tăng cao. Khi ấy, những người nghèo sẽ càng khó khăn hơn khi không thể mua hàng hoặc phải trả khoản tiền cao hơn rất nhiều. Tình trạng này gây rối loạn nền kinh tế – xã hội, tạo sự chênh lệch giàu nghèo lớn.

Chúng ta có thể ngược thời gian về năm 2020 khi dịch bệnh Covid-19 bùng nổ trong cộng đồng, các loại hàng hóa trở nên khan hiếm đặc biệt là khẩu trang y tế. Nhiều người đã nhân lúc này thu mua số lượng lớn khẩu trang và bán ra với mức giá cao gấp 3, 4 lần so với bình thường. Nhiều nhà thuốc, công ty sản xuất cũng tồn trữ khẩu trang nhằm đẩy mức giá lên cao để thu lợi về cho mình.

Những việc này đều gây mất trật tự xã hội, nhiều người không thể mua được khẩu trang và có nhiều người phải mua với giá cao trong khi tình hình kinh tế đang không ổn định do dịch bệnh. Tình trạng này buộc các cơ quan nhà nước phải can thiệp như nghiêm phạt những người đầu cơ trục lợi; khuyến khích, thúc đẩy sự sản xuất tại các cơ sở sản xuất vật phẩm y tế; cung cấp khẩu trang miễn phí cho người dân, nhất là những người có hoàn cảnh khó khăn; bình ổn lại mức giá chung,…

Sản xuất hàng hoá cần phải có nguyên liệu và công cụ, vậy thì nguyên liệu ở đâu mà có, công cụ từ đâu mà ra? Chính là từ việc con người khai thác từ thiên nhiên.

Bắt đầu từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ I năm 1760, con người đã khai thác khoáng sản với quy mô lớn để đáp ứng cho nhu cầu sản xuất. Cho đến nay, với sự tiến bộ trong công nghiệp, lượng khoáng chất cần cho nghiên cứu, chế tạo, vận hành còn lớn hơn rất nhiều cộng thêm trợ lực của máy móc nên con người đã khai thác mà không biết ngừng, dẫn đến nguồn tài nguyên ngày càng suy giảm thậm chí biến mất.

Đặc biệt trong đó có những tài nguyên rất quan trọng nhưng không thể tái tạo như dầu mỏ, nó chiếm khoảng 40% trên tổng số năng lượng được sử dụng toàn cầu. Cạn kiệt dầu sẽ dẫn đến rất nhiều tác động tiêu cực như chi phí tăng cao, các hoạt động sản xuất, kinh doanh bị đình trệ, nhiều công ty không thể hoạt động sẽ dẫn đến phá sản,… đây là hạn chế của sản xuất hàng hoá tiêu biểu nhất.

Xã hội đang phát triển không ngừng, đã có rất nhiều thành tựu khoa học – kỹ thuật ra đời tạo nên những đột phá mới về công nghệ. Song song với sự phát triển ấy là môi trường ngày càng bị tàn phá nặng nề. Các chất thải công nghiệp, chất thải nông nghiệp, khói bụi tích tụ trong bầu khí quyển, lắng đọng trong đất, nước khiến cho nhiều sinh vật bị biến đổi gen, có nguy cơ tuyệt chủng. Thậm chí những vật liệu độc hại còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ con người.

Nguồn lao động là nguồn lực quan trọng nhất và luôn là yếu tố then chốt mang đến sự thành công cho mỗi doanh nghiệp, quốc gia. Không chỉ là lực lượng sản xuất chủ chốt mà còn nâng cao năng lực để cạnh tranh của doanh nghiệp, tổ chức hay một đất nước.

Hiện nay, ở nhiều nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam đang đối mặt với thực trạng số người lao động tuy dồi dào nhưng vẫn còn rất nhiều thiếu sót tạo ra nhiều hạn chế của sản xuất hàng hoá.

Số lượng nhân công có tay nghề, trình độ chuyên môn cao còn thấp, đa phần là lao động chân tay. Điều này gây khó khăn cho việc chuyển đổi sản xuất trong các doanh nghiệp khi người lao động không đủ khả năng nắm bắt, vận hành và sử dụng máy móc vào sản xuất.

Ngoài ra, tốc độ đổi mới, cải tiến các thiết bị công nghệ chưa đồng đều và còn tụt hậu hơn so với các nước các nước phát triển khác mang lại rất nhiều hạn chế của sản xuất hàng hoá để có thể cạnh tranh về giá cả, thị trường.

Chẳng hạn như ở Việt Nam, nhiều doanh nghiệp nội địa vẫn chưa ứng dụng được nhiều các kỹ thuật tiên tiến, các khâu sản xuất và sản phẩm chưa có sự đổi mới, sáng tạo. Đặc biệt là các nguyên liệu sản xuất đa phần là phải nhập khẩu từ nước ngoài, bị phụ thuộc về giá và không có tính ổn định. Những điều này không chỉ khiến mức chi phí sản xuất tăng, mà cả về giá cả và chất lượng sản phẩm cũng không ổn định, khó cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài khác.

Sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, nhiều cá nhân doanh nghiệp vì muốn giảm thiểu chi phí sản xuất xuống thấp nhất để thu được nhiều lợi nhuận mà bất chấp sức khỏe, thậm chí tính mạng của người tiêu dùng để sản xuất ra các sản phẩm kém chất lượng.

Hạn chế của sản xuất hàng hoá kém chất lượng không chỉ làm mất uy tín mà còn khiến khách hàng mất niềm tin vào các sản phẩm của doanh nghiệp trong nước. Từ đó càng khó khăn hơn đối với các công ty nội địa khác khi sản xuất và ra mắt sản phẩm đến người tiêu dùng. Càng quan trọng hơn khi những sản phẩm này sẽ gây ra những hậu quả vô cùng nghiêm trọng đến sức khỏe người tiêu dùng.

Ở Việt Nam, năm 2019 các cơ quan, lực lượng chức năng đã xử lý 149.502 vụ việc vi phạm; Quản lý thị trường đã phát hiện và xử lý 82.300 vụ vi phạm. Vào năm 2020, chỉ riêng ở TP. Hồ Chí Minh đã có đến 1.013 vụ vi phạm tại các TTTM, chợ và các cửa hàng kinh doanh khác.

Không ai có thể phủ nhận những lợi ích mà sản xuất hàng hoá đã đem đến song song với đó mỗi người đều cần phải nhìn nhận rõ ràng hơn những khuyết điểm và hạn chế của sản xuất hàng hoá. Những điều này vẫn đang tồn tại và gây ảnh hưởng tiêu cực đến con người, đến trái đất mà chúng ta đang sống. Hy vọng qua bài viết này người đọc sẽ có thêm cái nhìn mới về sản xuất hàng hoá và từ đó có những giải pháp thiết thực hơn để cải thiện những hạn chế còn đang tồn đọng.

Hàng hóa là sản phẩm thu được từ lao động và có thể thỏa mãn những nhu cầu của con người, có thể đi vào tiêu dùng qua quá trình trao đổi – mua bán.

Theo định nghĩa của Karl Marx thì hàng hóa trước hết là vật có hình dạng và có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người tùy vào tính chất của nó. Đồ vật muốn trở thành hàng hóa cần phải có những đặc điểm sau:

Cũng theo Karl Marx thì hàng hóa là sản phẩm làm ra từ lao động và thông qua quá trình mua bán, trao đổi để thỏa mãn nhu cầu nào đó của cá nhân của nhu cầu của sản xuất.

Hàng hóa tồn tại ở hai hình thái: Vật thể và phi vật thể. Ngoài ra, chúng còn được phân thành các loại như: Hàng giảm giá, hàng thông thường, hàng cao cấp và công cộng.

Tuy nhiên, cho dù là thuộc loại hình nào thì muốn trở thành hàng hóa, vật đó cần có đủ ba yếu tố sau:

Ngày nay, do sự phát triển và thay đổi về nhận thức khiến cho cách hiểu về hàng hóa khác đi. Định nghĩa về hàng hóa là gì tiến sát hơn phạm trù giá trị, làm mờ đi ranh giới của sự tồn tại vật lý và vật thể. Một vật cũng có thể được xem là hàng hóa dù không có đủ những yếu tố nêu trên.

Ví dụ: Cổ phiếu, quyền sở hữu, tiền, sức lao động...